Kiểm tra cột chống thuỷ lực
Bảo toàn và phát triển vốn nhà nước
Căn cứ quy định pháp luật về bảo toàn vốn nhà nước, Điều 22 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP quy định phương pháp đánh giá mức độ bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Theo đó sau khi trích lập các khoản dự phòng theo quy định, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp không phát sinh lỗ hoặc có lãi, doanh nghiệp bảo toàn vốn.
BCTC của TKV qua các năm đều có lãi (từ khi thành lập chưa có phát sinh lỗ, thể hiện trên BCTC của Công ty mẹ và BCTC hợp nhất đã được kiểm toán độc lập hàng năm và được các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước kiểm tra, giám sát), do đó TKV đã bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu tư.
Chiều trên bến cảng (Cửa Ông)
Không phát sinh nợ quá hạn
Việc quản lý công nợ, TKV thực hiện đúng theo quy định tại Nghị định số 206/2013/NĐ-CP ngày 09/12/2013 về quản lý nợ của doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; Quy chế quản lý tài chính, Quy chế quản lý công nợ của Tập đoàn. Trong năm 2021 và 2022, TKV không phát sinh nợ phải thu quá hạn và cũng không phát sinh nợ quá hạn đối với NSNN, các khoản vay ngân hàng cũng như các khoản công nợ phải trả khác.
Nguồn tiền trả nợ là doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), khấu hao máy móc thiết bị (đầu tư từ nguồn vốn vay) chứ không phải từ lợi nhuận. Kết quả tổng số doanh thu từ hoạt động SXKD năm 2021 toàn Tập đoàn đạt 138.813 tỷ đồng, bằng 112% kế hoạch năm và bằng 104,8% so với năm 2020 (132.415 tỷ đồng); Tổng doanh thu trên tổng nợ là 1,86 lần. Lợi nhuận được ghi nhận trên BCTC của TKV đã tính đầy đủ các khoản chi trả cho hoạt động SXKD (bao gồm cả tiền gốc, lãi vay đến hạn).
Thông tin từ Tập đoàn cho biết, TKV không có phát sinh nợ quá hạn với các bên cho vay (có thể kiểm chứng qua cổng thông tin tín dụng CIC). Hệ số khả năng thanh toán nợ đến hạn của Tập đoàn năm 2021 là 0,97 lần; tăng 0,07 lần so với năm 2020 (0,90 lần), đảm bảo tính thanh khoản của toàn Tập đoàn.
Hệ số nợ ở mức an toàn, thấp hơn quy định
Bất kỳ một doanh nghiệp SXKD nào cũng cần có nguồn vốn để phục vụ đầu tư phát triển sản xuất và đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên (tiền mua nguyên nhiên vật liệu, trả lương cho CBCBV, trả lãi vay ngân hàng, nộp thuế, phí…). Bên cạnh nguồn vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp đều phải huy động nguồn vốn từ bên ngoài thông qua các hình thức vay tín dụng, phát hành trái phiếu, xã hội hoá… Đối với doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước như TKV, pháp luật có quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều 20 Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp về việc huy động vốn, đồng thời nêu rõ hệ số nợ phải trả không quá ba lần vốn chủ sở hữu.
Hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu của TKV năm 2021 là 1,60 lần, giảm 0,37 lần so với năm 2020 (1,97 lần) và thấp hơn nhiều so với mức trần quy định của Nhà nước (3 lần). Không chỉ năm 2021 và 6 tháng năm 2022, trong tất cả các năm TKV đều đảm bảo quy định về hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức an toàn, thấp hơn giới hạn quy định của Nhà nước.
Than về bến
Doanh thu đạt mức cao nhất
Năm 2022 tuy gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh covid-19, xung đột vũ trang giữa Nga và Ucraina, bất ổn của thị trường tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động SXKD của Tập đoàn,… song cán bộ công nhân người lao động TKV đã đoàn kết, phát huy truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm”, vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành toàn diện kế hoạch SXKD.
Kết quả năm 2022 được đánh giá là một năm thành công nhất từ trước tới nay của TKV: SXKD tăng trưởng, với doanh thu đạt cao nhất từ khi thành lập; Lợi nhuận, nộp ngân sách vượt kế hoạch giao; Cung cấp đủ và kịp thời than cho sản xuất điện và phân bón góp phần bình ổn giá cả thị trường trong khi giá than thế giới đang ở mức rất cao; Đời sống về vật chất và tinh thần của người lao động được cải thiện rõ rệt. Theo đó, doanh thu toàn Tập đoàn đạt 165,9 ngàn tỷ đồng, đạt 126% kế hoạch, và bằng 119% so với cùng kỳ 2021. Nộp ngân sách Nhà nước đạt 21,35 ngàn tỷ đồng, tăng 3,45 ngàn tỷ đồng so với kế hoạch. Lợi nhuận toàn Tập đoàn dự kiến đạt 8,1 ngàn tỷ đồng tăng 2,7 lần so với kế hoạch tương đương với 5 ngàn tỷ đồng. Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu hợp nhất toàn Tập đoàn các công ty là 1,58 lần, giảm 0,02 lần so với đầu năm 2022; Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) toàn Tập đoàn các Công ty 17,2% tăng 7% so với năm 2021. Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) toàn Tập đoàn các Công ty là 6,5% tăng 3% so với 2021.
Tập đoàn và các Công ty thành viên đã bảo toàn và phát triển được vốn kinh doanh. Đảm bảo việc làm, tiền lương thu nhập cho trên 95 ngàn người lao động với tiền lương bình quân 16,5 triệu đồng/người/tháng, bằng 121,5% kế hoạch và bằng 113,5% thực hiện năm 2021.
Bước sang năm 2023, TKV phấn đấu tổng doanh thu toàn Tập đoàn đạt 168,8 ngàn tỷ đồng, tăng 2% so với thực hiện năm 2022; Giá trị đầu tư XDCB toàn Tập đoàn 9.006 tỷ đồng; Nộp ngân sách 20,4 ngàn tỷ đồng; Lợi nhuận 5 ngàn tỷ đồng.
Với mục tiêu: AN TOÀN – PHÁT TRIỂN – HIỆU QUẢ, với vai trò dẫn dắt của Tập đoàn kinh tế Nhà nước trong việc đảm bảo an ninh năng lượng Quốc gia, cán bộ, đảng viên, công nhân lao động Tập đoàn các công ty Than-Khoáng sản Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống “KỶ LUẬT- ĐỒNG TÂM ” phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm 2023.