Báo cáo kết quả khảo sát thực trạng doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư nước ngoài năm 2023 của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy, hiện tỷ lệ thu mua của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam tăng so với năm 2022 và tỷ lệ nội địa hoá của Việt Nam đang tăng dần, đạt 41,9% (tăng gần 10% trong 10 năm).
Dù vẫn ở mức thấp so với Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia nhưng tốc độ tăng trưởng trong 10 năm qua của Việt Nam đứng thứ hai sau Ấn Độ. Theo đánh giá của ông Takeo Nakajima, Trưởng Văn phòng đại diện tại Hà Nội của JETRO, đây là kết quả khá tích cực nhờ những nỗ lực của Việt Nam cũng như việc tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp Nhật Bản.
Tỷ lệ nội địa hoá của Việt Nam đang tăng dần, đạt 41,9%.
Tuy nhiên, dù có những cải thiện về tỷ lệ nội địa hoá, hiện những linh phụ kiện quan trọng của sản phẩm hiện vẫn chưa được sản xuất tại Việt Nam mà vẫn phải nhập từ Malaysia, Indonesia.
Ông Takeo Nakajima cho rằng, vấn đề tỷ lệ nội địa hoá ảnh hưởng ít nhiều đến mong muốn mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam. Không ít doanh nghiệp có dự định mở rộng nhà máy sản xuất nhưng vì linh phụ kiện đáp ứng cho quy mô mở rộng nếu dựa vào thị trường Việt Nam sẽ không đủ còn nếu dựa vào nhập khẩu sẽ đẩy chi phí sản xuất của doanh nghiệp cao lên. Vì thế, trong các trường hợp, doanh nghiệp Nhật Bản đều phải cân nhắc, tính toán thận trọng trong vấn đề về mặt chi phí sản xuất.
Bên cạnh đó, có nhiều doanh nghiệp khi có ý định mở rộng sản xuất trong bối cảnh doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ khả năng đáp ứng các linh kiện cho nhu cầu mở rộng của doanh nghiệp thì họ sẽ kêu gọi doanh nghiệp đối tác của mình đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, nếu thị trường Việt Nam quy mô lớn, tiềm năng các nhà đầu tư sẽ vào nhưng ngược lại nếu quy mô thị trường Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư sẽ cân nhắc.
Tăng tỉ lệ nội địa hoá đang trở thành một trong những chiến lược quan trọng mà nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại Việt Nam đang theo đuổi. Việc tăng tỷ lệ nội địa hoá một mặt giúp doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, mặt khác đây là yếu tố quan trọng nhằm giảm rủi ro về địa chính trị.
Theo Đề án Tái cơ cấu ngành Công Thương đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành một nước có nền công nghiệp hiện đại, thuộc nhóm quốc gia có năng lực cạnh tranh công nghiệp và có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Để đạt được mục tiêu này, việc phát triển nền công nghiệp tự chủ và gia tăng tỉ lệ nội địa hoá trong toàn ngành công nghiệp là một trong những nhiệm vụ quan trọng.
Điều đó cần sự đồng thuận và hỗ trợ từ phía chính phủ, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp trong ngành. Cần phải có các biện pháp, cách thức phù hợp để giúp cho việc cải thiện tỷ lệ nội địa hoá tốt hơn, như vừa thu hút đầu tư từ bên ngoài, mặt khác vừa thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp nội địa với doanh nghiệp nước ngoài, qua đó nâng cao chất lượng công nghệ, sản phẩm sản xuất. Đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, cải thiện quy trình sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng. Chỉ khi đạt được mức nội địa hoá cao hơn, ngành công nghiệp Việt Nam mới có thể tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đóng góp tích cực vào nền kinh tế quốc gia.