Kênh tín dụng ưu đãi lớn nhất giúp đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện phát triển kinh tế
Tính đến hết năm 2016, NHCSXH quản lý 18 chương trình tín dụng chính sách và một số dự án, với tổng dư nợ đạt 157.300 tỷ đồng, trên 8,4 triệu khách hàng đang còn dư nợ. Trong đó, khách hàng là hộ đồng bào dân tộc thiểu số được thụ hưởng hầu hết các chương trình tín dụng tại NHCSXH, cụ thể: Trên 1,4 triệu khách hàng là hộ đồng bào dân tộc thiểu số đang còn dư nợ, với tổng dư nợ là 37.136 tỷ đồng (chiếm 24%/tổng dư nợ tại NHCSXH đang thực hiện), dư nợ bình quân đạt hơn 25 triệu đồng/hộ; Tỷ lệ hộ đồng bào dân tộc thiểu số vay vốn tín dụng chính sách tại các vùng miền của toàn quốc: Vùng đồng bằng sông Hồng: chiếm tỷ lệ 1,6%/tổng số khách hàng, vùng Trung du và miền núi phía Bắc: chiếm tỷ lệ 54%/tổng số khách hàng, Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung: chiếm 18%/số khách hàng, vùng Tây Nguyên: chiếm tỷ lệ 14%/tổng số khách hàng, vùng Đông Nam Bộ: chiếm tỷ lệ 1,8%/tổng số khách hàng, vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: chiếm 11%/tổng số khách hàng.
Đồng vốn ưu đãi giúp đồng bào dân tộc ở vùng sâu, xa thay đổi cách nghĩ, cách làm (Nguồn: vbsp.org.vn)
Điều đặc biệt, trong 18 chương trình tín dụng chính sách có 03 chương trình tín dụng dành riêng cho hộ dân tộc thiểu số là: Chương trình cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012-2015 theo Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg ngày 04/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ (thay thế cho Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg): tổng dư nợ là 924 tỷ đồng, với 127.539 khách hàng; Chương trình hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2013-2015 theo Quyết định 29/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ (thay thế cho Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg): Tổng dư nợ là 432 tỷ đồng, với 42.483 khách hàng; Chương trình hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo Quyết định số 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ (thay thế cho Quyết định số 1592/QĐ-TTg): Tổng dư nợ là 820 tỷ đồng, với 55.474 khách hàng.
Tổng dư nợ của 3 chương trình này là 2.177 tỷ đồng, với 225.496 khách hàng vay vốn. Tuy nhiên, đến hết năm 2016, 03 chương trình tín dụng nêu trên đã hết hiệu lực thi hành và sẽ được NHCSXH quản lý, theo dõi theo quy định.
Trong thời gian tới, Quyết định số 2085/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sẽ được triển khai thực hiện để hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tạo quỹ đất sản xuất hoặc chuyển đổi ngành nghề giai đoạn 2017 - 2020. Ngoài ra, còn có chương trình cho vay theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09/9/2015 của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2020. Chương trình này mới được Chính phủ giao vốn và NHCSXH đã khẩn trương phân bổ về các địa phương để triển khai cho vay theo quy định. Đến nay, tổng dư nợ của chương trình này là 7.953 triệu đồng, với 213 hộ gia đình vay vốn.
Có được kết quả như trên, trong những năm qua, NHCSXH đã tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng chính sách trong toàn hệ thống, đặc biệt là các tỉnh khu vực Tây Nam bộ, Tây Nguyên, Tây Bắc và những nơi đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa; mặt khác, NHCSXH đã phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền các cấp và 04 tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác triển khai quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng của hoạt động tín dụng chính sách, đảm bảo phục vụ nhân dân tốt hơn.
Cùng với đó, thông qua mô hình tổ chức và phương thức chuyển tải vốn tín dụng ưu đãi của NHCSXH, đã góp phần là “cầu nối” giữa Cấp ủy chính quyền địa phương các cấp với quần chúng nhân dân; qua đó, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng trong vùng.
Chính sách tín dụng ưu đãi đã thay đổi tư duy, cuộc sống của đồng bào
Là huyện 30a của tỉnh Quảng Trị, Đakrong có tới 80% là đồng bào dân tộc thiểu số ít người; Theo Phó Chủ tịch huyện Hồ Thị Kim Cúc kể: “Là huyện nghèo, xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, thiếu thốn đủ bề, cộng thêm trình độ dân trí và trình độ khoa học kỹ thuật hạn chế, phong tục tập quán còn lạc hậu; tỷ suất sinh hàng năm cao, người dân còn mang nặng tư tưởng “đông con hơn đông của”. Và đây là những nguyên nhân khiến địa phương có tỷ lệ nghèo đói cao”. Cùng với các giải pháp của Chính phủ dành cho các huyện nghèo và nguồn lực đầu tư, trong đó phải kể đến nguồn vốn tín dụng ưu đãi từ NHCSXH đã giúp bà con phát triển kinh tế trên vùng đất khó. Phó Chủ tịch huyện thông tin thêm: “Song song với việc dẫn vốn tín dụng ưu đãi về với từng thôn bản, cán bộ NHCSXH phối hợp với chính quyền cơ sở cùng hướng dẫn bà con từ việc học vay vốn; mỗi lần giải ngân là lần đó chuyển giao khoa học kỹ thuật. Từ việc nhỏ đến việc lớn là cán bộ cầm tay chỉ việc giúp bà con trong sản xuất kinh tế có làm có ăn để thay đổi thói quen mong đợi từ thiên nhiên. Và chúng tôi gọi đó là cuộc “đại cách mạng” thay đổi hành vi”.
Tại Lào Cai, đến thăm gia đình anh La Văn Sinh, dân tộc Giáy ở thôn Mường Gum, xã Mường Gum (Bát Xát, Lào Cai) anh cho biết: Năm 2009, gia đình được vay 20 triệu đồng vốn hộ nghèo để phát triển sản xuất và khi chính sách hỗ trợ hộ nghèo làm nhà ở được triển khai, năm 2009 gia đình được ngân hàng giải ngân 8 triệu đồng. Nhờ những đồng vốn ưu đãi này mà đến nay gia đình anh Sinh đã ổn định cuộc sống với ngôi nhà khang trang và nguồn thu khá ổn định từ chăn nuôi trâu bò và lợn. “Trước đây, gia đình tôi thuộc diện ít đất sản xuất, cộng với việc không có vốn làm ăn nên cái nghèo cứ đeo đẳng mãi. Nhưng từ khi tôi vay được tiền NHCSXH, gia đình tập trung vào chăn nuôi, dần dần cũng có lãi. Ngoài ra, tôi còn đi nhận làm gạch thuê, nhờ tích góp dần nên đã mở rộng thêm việc kinh doanh hoa quả ở chợ, có thêm điều kiện nuôi các con ăn học.”, anh La Văn Sinh chia sẻ.
Có kinh nghiệm trên 10 năm là Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn, giờ đây chị Lý Thị Nam ở thôn Mường Gum, xã Mường Gum (Bát Xát, Lào Cai) đang quản lý 50 hộ với dư nợ trên 1,3 tỷ đồng. “Đồng vốn tín dụng chuyển tải qua NHCSXH thời gian qua đều mang ý nghĩa thiết thực góp phần vào thực hiện giảm nghèo tại địa phương. Nhờ có các chính sách tín dụng ưu đãi bà con mới tiếp cận được vốn để phát triển kinh tế, bên cạnh đó, người đồng bào bước đầu đã thay đổi nhận thức về sản xuất hàng hóa theo kinh tế thị trường và đã có hộ vươn lên thoát nghèo trên vùng đất khó khăn này”- Chị Nam nhấn mạnh.
Bằng cách thức, thủ tục vay vốn đơn giản và mạng lưới hoạt động của tín dụng chính sách được“phủ” đến từng thôn, bản thông qua gần 190.000 Tổ tiết kiệm và vay vốn và 11.000 Điểm giao dịch xã của NHCSXH kết hợp với hướng dẫn sử dụng vốn vay phù hợp với khả năng và điều kiện của hộ vay, tín dụng chính sách đã thay đổi cuộc sống của đa số đồng bào, góp phần tích cực trong việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, góp phần hoàn thành mục tiêu giảm tỉ lệ hộ nghèo cả nước giai đoạn 2011 - 2016 đã từ 11,76% xuống còn 8,38%.
Vì vậy, hành trình dẫn vốn đến đồng bào dân tộc thiểu số đã làm thay đổi nhận thức để giúp đồng bào dân tộc thiểu số tự tin, tăng dần vị thế trong xã hội; nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh cũng như trình độ quản lý vốn để dần vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống.
Nhìn rộng ra, có thể nhận thấy rõ ý nghĩa tích cực trong việc tạo nguồn lực giúp các địa phương khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng tỉnh và toàn vùng, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái; tăng cường sự hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước gắn với yêu cầu phát huy tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc thiểu số trong phát triển sản xuất, nâng cao đời sống. Với vai trò là công cụ để thực hiện chính sách giảm nghèo của Chính phủ, NHCSXH luôn chỉ đạo tập trung ưu tiên nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo... còn gặp nhiều khó khăn, chưa làm quen với sản xuất hàng hóa thị trường vẫn sản xuất tự cung, tự cấp được tiếp cận với nguồn vốn cho vay ưu đãi của Chính phủ để đầu tư sản xuất kinh doanh từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững, giúp cho đời sống giảm bớt khó khăn, giảm bệnh tật, thất học, các tệ nạn xã hội... đảm bảo an sinh xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những khó khăn trong quá trình triển khai, cụ thể: Việc bố trí nguồn vốn chưa kịp thời để đảm bảo chủ động thực hiện các chương trình tín dụng theo kế hoạch được duyệt (như: Chương trình cho vay theo Quyết định 755/QĐ-TTg, Quyết định 29/2013/QĐ-TTg, Quyết định 54/2012/QĐ-TTg) trong khi thời gian hiệu lực thi hành các Quyết định trên chỉ đến hết năm 2015. Do vậy, các địa phương không đủ thời gian để giải ngân cho vay. Tuy nhiên, việc giải ngân nguồn vốn trên cũng được Thủ tướng Chính phủ cho phép kéo dài đến hết năm 2016 để đảm bảo không bỏ sót đối tượng thụ hưởng nào; Thời hạn cho vay và mức cho vay (giai đoạn 2011- 2015), chính sách tín dụng đối với đồng bào dân tộc thiểu số chưa có chính sách đột phá về thời hạn cho vay (thời hạn cho vay ngắn, chỉ tối đa là 05 năm), mức cho vay (chỉ nâng từ 5 triệu lên 8 triệu đồng/hộ hoặc nâng từ 10 triệu lên 15 triệu đồng/hộ); bên cạnh đó, chưa có cơ chế cho kéo dài thời gian trả nợ đối với hộ vay vốn đã được gia hạn nợ hết thời gian tối đa theo quy định nhưng vẫn chưa thoát nghèo, dẫn đến khó khăn để thoát nghèo và thoát nghèo bền vững; Hiệu quả phối hợp giữa các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ của các tổ chức Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội với hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH chưa cao, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn vay của một bộ phận người vay là chưa cao, khó khăn trong việc thoát nghèo bền vững; Ngoài ra, còn một bộ phận hộ đồng bào DTTS sử dụng vốn vay chưa hiệu quả hoặc có tư tưởng ỷ lại, trông chờ làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHCSXH. Một hộ đồng bào DTTS vay vốn đi xuất khẩu lao động chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc, ý thức chấp hành kỷ luật còn thấp, tác phong công nghiệp kém, bỏ về nước trước hạn, vi phạm hợp đồng lao động hoặc một số doanh nghiệp dịch vụ chiếm dụng vốn của người lao động...
Những khó khăn trên là do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Đối tượng vay là hộ dân tộc thiểu số, sinh sống tại những nơi có địa hình hiểm trở, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi lũ lụt, lũ quét, lũ ống, hạn hán, nằm xa các trung tâm; kinh tế, giao thông khó khăn; cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, Trình độ, tập quán sản xuất, nhận thức và cách thức tổ chức sản xuất của một bộ phận hộ dân tộc thiểu số còn thấp, vẫn còn tính tự cấp, tự túc... Sản phẩm sản xuất ra không tập trung, khó tiêu thụ, dẫn dến lợi nhuận thấp, đồng tiền thu được không bù đắp đủ chi phí sản xuất.
Thứ ba, chưa có cơ chế gắn kết thống nhất để lồng ghép, phối hợp giữa các chương trình, dự án trên cùng địa bàn với vốn tín dụng của NHCSXH, giữa các hoạt động đào tạo, tập huấn khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao khoa học với các chương trình, dự án đầu tư trên địa bàn.
Để tín dụng chính sách tiếp tục tiếp sức đối với đồng bào dân tộc
Những kết quả cụ thể trên đối với đồng bào dân tộc thiểu số là những điểm tựa để NHCSXH nâng cao hơn nữa hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách, cộng hưởng chung trong nỗ lực giảm nghèo bền vững tại những vùng đất khó. Chính sách tín dụng dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian tới cần mang tính đột phá về tăng mức vay; tăng thời hạn cho vay; nguồn vốn tập trung vào một số ngành nghề trọng yếu để hộ dân có định hướng làm ăn, tạo sinh kế trong tương lai như: Nông nghiệp, lâm nghiệp, sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện cuộc sống... Bên cạnh đó, cũng cần phải đẩy mạnh việc chuyển giao khoa học, kỹ thuật, có định hướng, thị trường tiêu thụ sản phẩm... để giúp hộ dân tạo năng suất, chất lượng sản phẩm (thực sự là sản xuất hàng hoá). NHCSXH đánh giá cao chính sách bảo vệ và phát triển rừng theo Nghị định 75/2015/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 09/9/2015 đã có sự đột phá về mức cho vay đáp ứng nhu cầu trồng rừng và phát triển chăn nuôi tại rừng; thời hạn cho vay tối đa đến 20 năm...
Đồng thời, cần có chính sách tín dụng đặc thù cho vùng, địa phương để ưu tiên, khuyến khích đồng bào định canh, định cư tại chỗ, vừa giúp cho việc phát triển kinh tế bền vững và vừa giữ gìn bản sắc dân tộc...
Với chủ trương định hướng chính sách giảm nghèo bền vững của Chính phủ trong thời gian tới là “...Tăng cường chính sách cho vay, giảm cho không, nâng định mức vay, lấy hộ nghèo làm chuẩn,...”. Theo đó, định hướng tập trung vào các mục tiêu sản xuất mang tính hàng hoá. Riêng đối với đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số có đời sống quá khó khăn, già cả, neo đơn, không có khả năng lao động, tàn tật, mắc bệnh hiểm nghèo... thì trước mắt cần phải có lộ trình cho các hộ đó ổn định đời sống, đảm bảo an sinh xã hội như việc Chính phủ ưu tiên các chính sách trợ cấp, bảo trợ xã hội... mà chưa áp dụng các chính sách tín dụng vay vốn ưu đãi.
Cùng với đó, chính quyền địa phương các cấp cần gắn kết hơn nữa trong việc đầu tư tín dụng chính sách vào mô hình sản xuất - kinh doanh có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội tại các địa phương, cần thực hiện tốt chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư..., chuyển giao khoa học kỹ thuật, nhân rộng các mô hình thoát nghèo theo đúng tinh thần Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về việc giảm nghèo bền vững đến năm 2020 và các năm tiếp theo. Trong đó, lưu ý đến việc tiêu thụ sản phẩm cho hộ dân để giải quyết một phần vấn đề ly nông bất ly hương để đồng bào yên tâm làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
LƯƠNG XUÂN