Tại “Chương trình đầu tư hàng không Việt Nam Training - MRO - Logistic" được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15/8, các chuyên gia cho rằng, sự chênh lệch trong ngành hàng không nước ta được cho là do thiếu công nghệ cốt lõi trong ngành.
Ngành công nghiệp hỗ trợ hàng không, bao gồm nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, bảo dưỡng và sửa chữa máy bay và thiết bị hàng không mặt đất, có tiềm năng tạo ra nhiều việc làm và giúp cân bằng sự phát triển không đồng đều hiện nay trong ngành.
Theo thống kê của Cục Hàng không Việt Nam, đội tàu bay đăng ký quốc tịch Việt Nam tính đến ngày 15/3 là 222 chiếc, trong đó 203 tàu thương mại do các hãng trong nước khai thác. Số lượng đội bay này có thể không phản ánh hết quy mô, bởi các hãng có thể thuê ngắn hạn có tổ bay (thuê ướt) khi cần thiết. Chưa kể, một số hãng còn đặt mua thêm máy bay.
Việt Nam hiện có 22 sân bay, phục vụ 100 triệu hành khách mỗi năm. Theo quy hoạch, số sân bay sẽ tăng lên 30 vào 2030 và 33 vào năm 2050. Dự báo 10 năm tới, số hành khách vận chuyển sẽ lên gần 300 triệu.
Các chuyên gia từ Hội Khoa học và Công nghệ Hàng không Việt Nam (VASST) cho rằng, ngành hàng không đang phát triển "khập khiễng" vì phụ thuộc vào nước ngoài. Thực tế, các hãng chỉ mua tàu bay mà thiếu phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, như bảo dưỡng, sửa chữa, nghiên cứu, sản xuất chế tạo phụ tùng, máy móc hỗ trợ.
Nền công nghiệp phụ trợ hàng không tại Việt Nam vẫn còn non trẻ, chưa có nhiều đóng góp đáng kể. Hiện tại, ngoài Công ty Kỹ thuật Hàng không VAECO và Công ty Kỹ thuật Máy bay (AESC). Không có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực bảo dưỡng, cửa chữa tàu bay. Ngành công nghiệp hàng không mặt đất cũng còn hạn chế. Chỉ có một vài sản phẩm từ Công ty Quản lý bay ATTECH phục vụ cho quản lý bay và các sản phẩm điện tử dẫn đường.
Xưởng sửa chữa máy bay tại Hà Nội.
Một trong số lý do khiến lĩnh vực này chưa phát triển được người có kinh nghiệm trong ngành chỉ ra, là thiếu cơ chế khuyến khích. Lãnh đạo một hãng hàng không nội địa cho rằng Việt Nam đang bay gia công khi từ tàu bay, động cơ hay linh kiện như phanh, lốp đều phải nhập khẩu. Ông thừa nhận Việt Nam bị ảnh hưởng lớn hay bị ép là bình thường do "chúng ta không nắm được công nghệ lõi trong ngành hàng không".
Chưa kể, việc phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, đẩy chi phí các hãng lên cao. Ước tính thuê tàu bay, sửa chữa động cơ... chiếm gần một nửa trong cơ cấu chi phí của các hãng bay trong nước. Họ không thể can thiệp vào các chi phí này, phải chấp nhận theo mặt bằng chung của thế giới.
Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào tham gia trực tiếp hoặc phụ trợ sản xuất linh phụ kiện cho lắp ráp máy bay.
TS. Trần Quang Châu - Chủ tịch VASST và TS. Đinh Quang Toàn - Phó tổng thư ký VASST cho rằng "không thể chậm hơn được nữa" để ngành hàng không phát triển bền vững.
Các chuyên gia từ VASST cho rằng Việt Nam cần nghiên cứu các cơ chế khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển công nghiệp hỗ trợ hàng không. Việc này sẽ giúp các doanh nghiệp trong ngành giảm phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu.
Cùng với đó, đào tạo nhân lực, nhất là kỹ sư cũng được giới chuyên môn khuyến nghị cần làm sớm. TS. Trần Thị Thái Bình, Trưởng bộ môn Kinh tế hàng không (Học viện Hàng không Việt Nam) nhận định, hiện có khoảng cách đáng kể giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng kỹ sư hàng không chuẩn quốc tế tại Việt Nam. Các hãng cần tăng hợp tác thông qua đưa chuyên gia nước ngoài vào giảng dạy, áp dụng các phương pháp thực hành quốc tế. Nhờ đó, các chuyên gia nội địa tương lai có thể tiếp cận với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến.