Đó là thông tin được đưa ra tại Hội thảo "Cơ chế chính sách, định hướng và giải pháp phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo và điện khí" diễn ra sáng 10/12/2024, tại Hà Nội. Hội thảo do Viện Nghiên cứu Cơ khí, Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) và Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam phối hợp tổ chức.
Tiến sĩ Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí phát biểu tại Hội thảo.
Phát biểu khai mạc hội thảo, Tiến sĩ Phan Đăng Phong - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí cho biết, trong bối cảnh hiện nay khi nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt và Thủ tướng Chính phủ cam kết đạt mức “phát thải ròng bằng 0" (Net Zero) vào 2050, thì nguồn năng lượng tái tạo (NLTT) và điện khí đang trở thành một trong những vấn đề rất được quan tâm tại Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
Thực hiện nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 05 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ về việc “Ban hành kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Viện Nghiên cứu Cơ khí được Bộ Công Thương giao Chủ trì thực hiện Đề tài “Nghiên cứu đề xuất nhiệm vụ và giải pháp phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp năng lượng tái tạo cho các khu vực ven biển, hải đảo Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 2350/QĐ- BCT về việc Ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021- 2023, tầm nhìn tới năm 2050. Tại quyết định số 2350/QĐ-BCT Bộ Công Thương giao Viện Nghiên cứu Cơ khí chủ trì và phối hợp với Cục Công nghiệp, Vụ Khoa học Công nghệ xây dựng “Đề án phát triển ngành cơ khí điện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá”.
Để tiếp thu các ý kiến đóng góp cho Đề án, Viện Nghiên cứu Cơ khí phối hợp cùng Vụ Khoa học và Công nghệ (KHCN) - Bộ Công Thương, Hiệp hội doanh nghiệp cơ khí Việt Nam tổ chức buổi hội thảo này.
Các chủ đề chính của Hội thảo bao gồm: Nghiên cứu đề xuất nhiệm vụ và giải pháp phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp NLTT cho các khu vực ven biển, hải đảo Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Xây dựng Đề án phát triển ngành cơ khí điện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá.
Ông Phạm Nguyên Hùng – Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) trao đổi, thảo luận tại Hội thảo.
Ông Trần Minh – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ (Bộ Công Thương) phát biểu tại Hội thảo.
Chia sẻ về thực trạng, nhu cầu phát triển ngành công nghiệp NLTT cho các khu vực ven biển, hải đảo Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tiến sĩ Vũ Văn Khoa - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí cho rằng, sản xuất điện năng bằng nguồn NLTT tại Việt Nam đang ngày một phát triển mạnh mẽ, như là một xu hướng bắt buộc, vì điện năng từ các nguồn nhiên liệu hóa thạch đang cạn kiệt, hơn nữa có tác động xấu tới môi trường, khí hậu toàn cầu. Nước ta có tiềm năng to lớn cho loại hình sản xuất điện năng này được tập trung ở các khu vực ven biển, hải đảo, vì vậy các khu vực này cần được đầu tư, ưu tiên cho phát triển lịa hình sản xuất điên năng từ nguồn NLTT. Nhu cầu điện năng ngày một tăng cao, trong bối cảnh việc sản xuất điện năng từ nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày một hạn chế thì việc sản xuất điện năng từ nguồn NLTT là rất cần thiết và tất yếu.
Chính phủ, các bộ ngành liên quan đã ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm phát triển ngành công nghiệp này, do đó tỷ trọng phát điện từ nguồn NLTT không ngừng tăng cao trong cơ cấu nguồn phát điện. Qua tổng hợp nhu cầu thực tế, cũng như dự đoán nhu cầu điện năng trong tương lai, giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cho thấy tiềm năng sản xuất điện năng từ nguồn NLTT tại các khu vực ven biển, hải đảo là rất lớn. “Nhà nước cần tiếp tục hoạch định các cơ chế nội địa hóa tốt cho các doanh nghiệp trong nước để nội địa hóa cao nhất có thể, để làm chủ lĩnh vực này ở thị trường trong nước từ đó vươn ra khu vực và chuỗi toàn cầu” – Tiến sĩ Vũ Văn Khoa nhấn mạnh.
Về nhu cầu phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp NLTT cho các khu vực ven biển, hải đảo Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, ông Đỗ Hoài Nam – Chủ tịch Công ty Cơ khí Hà Nội cho rằng nhu cầu phát triển ngành điện gió là rất lớn, đi kèm với nó cần phải phát triển ngành chế tạo thiết bị.
Tuy nhiên, vấn đề nội địa hóa thiết bị trong ngành NLTT vẫn còn hạn chế, một số thiết bị quan trọng (tuabin- máy phát; cánh quạt;…) chúng ta vẫn phải nhập khẩu 100%. Các thiết bị/ hoặc dịch vụ còn lại tùy mức độ chúng ta có mức độ nội địa hóa khác nhau và chúng ta mới nội địa hóa tỷ lệ 100% cho các thiết bị/ dịch vụ đơn giản như phần kết cấu, xây dựng, lắp đặt. Tham gia vào chuỗi cung cấp đó cũng phần nhiều là các công ty đầu tư nước ngoài, nên thực tế tỷ lệ nội địa hóa cho các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp nữa, như vậy tiềm năng về nhu cầu phát triển ngành chế tạo thiết bị phục vụ ngành công nghiệp NLTT cho các khu vực ven biển, hải đảo Việt Nam giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là rất lớn.
Ông Đỗ Hoài Nam – Chủ tịch Công ty Cơ khí Hà Nội: Nhu cầu phát triển ngành điện gió là rất lớn, đi kèm với nó cần phải phát triển ngành chế tạo thiết bị.
Theo PGS. TS. Nguyễn Chỉ Sáng - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam, việc nghiên cứu để nội địa hóa cung cấp một số thiết bị cho các nhà máy điện gió là cần thiết bởi, giảm giá thành đầu tư cho các dự án, chủ động trong đầu tư, giảm thời gian thực hiện dự án, giảm nhập siêu, góp phần phát triển ngành công nghiệp cơ khí nước nhà và tạo công ăn việc làm cho ngành cơ khí chế tạo máy;…
PGS. TS. Nguyễn Chỉ Sáng - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam khẳng định, việc nghiên cứu để nội địa hóa cung cấp một số thiết bị cho các nhà máy điện gió là cần thiết.
Đề xuất về tỷ lệ nội địa hóa và các hạng mục có thể nội địa hóa trong dự án điện gió tại Việt Nam, PGS. TS. Nguyễn Chỉ Sáng cho rằng, có thể tham khảo từ kinh nghiệm của các quốc gia có quy mô tương đồng như Malaysia, nơi ngành điện gió đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào chính sách thúc đẩy nội địa hóa sản phẩm và dịch vụ. Tỷ lệ nội địa hóa trong các dự án điện gió tại Malaysia hiện nay dao động từ 30% đến 50%, tùy vào loại hình dự án và mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước. Tại Việt Nam, một tỷ lệ nội địa hóa hợp lý có thể là khoảng 40% - 50%, đặc biệt đối với các hạng mục dễ dàng triển khai như sản xuất các bộ phận nhỏ của turbine gió, cáp điện, trụ gió hoặc các dịch vụ bảo dưỡng, vận hành.
Về cơ chế, chính sách, Chính phủ cần có các ưu đãi và hỗ trợ đặc biệt cho các doanh nghiệp tham gia vào chương trình nội địa hóa như: Các chính sách cho vay ưu đãi, hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ và dây chuyền sản xuất các thiết bị và dịch vụ điện gió; Giảm thuế, miễn thuế cho các sản phẩm nội địa hóa để khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng nội địa; Để nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp trong nước, Nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí cho các chương trình đào tạo về công nghệ điện gió và chuyển giao công nghệ; Chính phủ cần xây dựng ngay chiến lược và lộ trình nội địa hóa điện gió và thực hiện lộ trình một cách kiên định.
Chia sẻ về khả năng nội địa hoá thiết bị cơ khí – điện cho các nhà máy điện khí tại Việt Nam, ông Đoàn Văn Minh - Viện Nghiên cứu Cơ khí cho rằng, nếu chúng ta xây dựng được chính sách để đảm bảo tỷ lệ nội địa hóa phần thiết bị khoảng 31,7% cho trong nước thực hiện sẽ tạo ra được một thị trường thiết bị điện khí trong vòng 10 năm với giá trị khoảng 7,69 tỷ USD. Một con số rất ấn tượng, đặc biệt đối với ngành cơ khí trong nước
Tới thời điểm này, các doanh nghiệp cơ khí trong nước vẫn chưa tham gia được nhiều trong việc làm chủ công nghệ, thiết kế, chế tạo các hạng mục thiết bị trong nhà máy điện khí, mặc dù có một số đơn vị trong nước hoàn toàn có thể thực hiện việc chế tạo thiết bị cho nhà máy điện khí.
Nguyên nhân, theo ông Minh là do doanh nghiệp Việt Nam hầu như chưa có được chính sách hỗ trợ cụ thể nào. Luật đấu thầu đang cản trở việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, đặc biệt đối với dây chuyền, thiết bị phức tạp (chẳng hạn như nhà máy điện khí) mà Việt Nam chưa sản xuất được phải liên danh với nhà thầu nước ngoài.
Các đơn vị có kinh nghiệm không dễ tham gia vào công tác chế tạo thiết bị cho nhà máy điện khí do tình hình huy động vốn đầu tư các dự án nhà máy điện khí cần một lượng vốn lớn, nên các chủ đầu tư trong nước thường áp dụng hình thức vốn thu xếp từ chính các nhà thầu cung cấp thiết bị từ nước ngoài.
Đại diện Tổng công ty PTSC tham luận tại Hội thảo.
Nhu cầu về điện khí tại Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới cùng với nhu cầu phát triển bền vững của nền kinh tế và các mục tiêu bảo vệ môi trường. Các dự án này không chỉ giúp đáp ứng nhu cầu điện trong nước mà còn nâng cao khả năng cung cấp điện cho khu vực Đông Nam Á… Do vậy, xây dựng một cơ chế chính sách để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tiếp thu và làm chủ công nghệ các thiết bị nhà máy điện khí là rất cần thiết và cấp bách. Việc làm chủ công nghệ các dự án điện khí không những tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho các doanh nghiệp cơ khí trong nước, giảm nhập siêu mà còn giúp cho các chủ đầu tư trong nước tự chủ trong việc sửa chữa, bảo dưỡng, thay thế kịp thời các thiết bị trong quá trình vận hành, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.