
Phát triển công nghiệp hỗ trợ cơ khí không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là nền tảng then chốt giúp Việt Nam làm chủ công nghệ, nâng tầm năng lực cạnh tranh quốc gia. Ảnh: CVD
Bức tranh thực trạng: phát triển nhưng chưa tương xứng tiềm năng
Hiện Việt Nam có hơn 500 doanh nghiệp sản xuất linh kiện kim loại – nhóm sản phẩm quan trọng nhất của CNHT cơ khí. Con số này rất khiêm tốn so với hơn 7.000 doanh nghiệp cơ khí đang hoạt động trên cả nước. Thị trường chính của các doanh nghiệp trong lĩnh vực bao gồm: xe máy, ô tô, máy nông nghiệp, máy động lực, thiết bị đồng bộ và các ngành công nghệ cao.
Tỷ lệ nội địa hóa trong một số lĩnh vực đạt mức khá cao. Hiện linh kiện kim loại sản xuất trong nước đã đáp ứng: 85–90% nhu cầu cho sản xuất xe máy; 40–60% cho máy nông nghiệp, máy xây dựng; 20% cho thiết bị đồng bộ; 15–40% linh kiện cho sản xuất ô tô tùy dòng xe; Các ngành công nghệ cao mới chỉ đạt mức khoảng 10%.
Trong đó, công nghiệp linh kiện kim loại phục vụ sản xuất xe máy là lĩnh vực phát triển mạnh nhất. Do nhu cầu thị trường lớn, các tập đoàn FDI như Honda, Yamaha… đã kéo theo hàng loạt nhà cung ứng cấp 1, cấp 2 đầu tư vào Việt Nam, đồng thời thiết lập quan hệ hợp tác với nhiều nhà sản xuất trong nước. Tương tự, lĩnh vực linh kiện cho máy nông nghiệp, máy động lực và máy xây dựng cũng tăng trưởng tốt, tỷ lệ nội địa hóa cao và hình thành được mạng lưới doanh nghiệp tương đối phát triển.
Ngược lại, sản xuất linh kiện cơ khí cho ô tô, thiết bị đồng bộ và công nghệ cao phát triển chậm hơn nhiều. Nguyên nhân chính là thị trường hạ nguồn chưa đủ lớn, thiếu tác động lan tỏa để kéo theo CNHT. Quy mô thị trường ô tô vẫn nhỏ so với các nước trong khu vực, trong khi các ngành công nghệ cao cần vốn lớn, nhân lực chất lượng cao và tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe.
Một rào cản rất lớn hiện nay là nguồn vật liệu đầu vào, đặc biệt là thép chế tạo. Các doanh nghiệp vẫn phụ thuộc nhập khẩu thép hợp kim chất lượng cao, làm tăng chi phí và hạn chế khả năng cạnh tranh với sản phẩm ngoại nhập.
Thiếu doanh nghiệp dẫn dắt – “điểm nghẽn” kéo dài của ngành
Dù trình độ một số doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đã tiến bộ vượt bậc, ngành vẫn thiếu các doanh nghiệp lớn đủ tầm dẫn dắt. Đây là yếu tố quan trọng để hình thành hệ sinh thái công nghiệp mạnh như cách Nhật Bản, Hàn Quốc hay Đức đã làm.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Cơ khí Việt Nam (VAMI), doanh nghiệp trong nước dù có năng lực chế tạo khuôn mẫu, linh kiện cơ khí, dây cáp điện, nhựa – cao su kỹ thuật… nhưng nhìn chung quy mô nhỏ, công nghệ còn lạc hậu so với tiêu chuẩn quốc tế. Giá thành sản phẩm cao, chất lượng không đồng đều khiến nhiều doanh nghiệp khó tham gia sâu vào chuỗi cung ứng của FDI.
Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra yêu cầu mới về robot hóa, tự động hóa và chuyển đổi số. Chủ tịch HAMEE Đỗ Phước Tống nhận định doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đang ở “giai đoạn bản lề”, nơi đổi mới công nghệ không còn là lựa chọn mà là điều kiện bắt buộc để tồn tại.
Hiện ba lĩnh vực mũi nhọn gồm xe máy – phụ tùng; dụng cụ – cơ khí gia dụng; ô tô – linh kiện ô tô chiếm tới 70% giá trị sản xuất nội địa. Tuy nhiên, dư địa vẫn còn rất lớn khi nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng ở mức gia công đơn giản, chưa sản xuất được linh kiện chiến lược có hàm lượng công nghệ cao.
Nhiều cơ hội mở ra trong bối cảnh hội nhập sâu rộng
Theo dự báo, đến năm 2030, quy mô thị trường cơ khí Việt Nam có thể đạt 310 tỷ USD, riêng thị trường ô tô khoảng 120 tỷ USD. Đây là dư địa khổng lồ để doanh nghiệp cơ khí – đặc biệt là CNHT – phát triển.
Việt Nam cũng đang là điểm đến hấp dẫn cho dòng vốn FDI nhờ môi trường chính trị ổn định, chi phí cạnh tranh và hạ tầng công nghiệp cải thiện. Nhiều tập đoàn đa quốc gia đang tìm kiếm nhà cung cấp mới tại Việt Nam để đa dạng hóa chuỗi cung ứng toàn cầu.
Nếu doanh nghiệp trong nước tận dụng cơ hội này, ngành cơ khí hoàn toàn có thể bước sang giai đoạn phát triển mới, không chỉ theo sau FDI mà trở thành một mắt xích quan trọng của chuỗi giá trị quốc tế.
Giải pháp thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ cơ khí phát triển
Để tạo đột phá, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp từ chính sách, tài chính, đào tạo đến chuyển giao công nghệ.
1. Phát triển vật liệu nền và giảm phụ thuộc nhập khẩu
Nhà nước cần: Ưu tiên đầu tư phát triển sản xuất thép chế tạo, vật liệu đặc chủng; Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước tiếp cận nguồn vốn dài hạn để xây dựng nhà máy vật liệu công nghệ cao; Kết nối doanh nghiệp sản xuất vật liệu với doanh nghiệp chế tạo linh kiện. Đây là giải pháp mang tính nền tảng để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.
2. Phát triển có trọng điểm các ngành hạ nguồn
Những ngành như: ô tô, thiết bị đồng bộ, công nghệ cao cần được ưu tiên phát triển để tạo thị trường ổn định và đủ lớn cho CNHT cơ khí.
3. Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ và số hóa
Nhiều chuyên gia đề xuất: Thành lập Quỹ đổi mới công nghệ cơ khí – chế tạo; Hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư robot công nghiệp, tự động hóa; Khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI; Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế ISO, IATF, ESG, giúp doanh nghiệp có “visa công nghệ” tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu.
4. Phát triển cụm công nghiệp hỗ trợ
Việt Nam cần xây dựng các trung tâm chuyên biệt giống mô hình “Metal Valley” của Thái Lan, nơi doanh nghiệp được hỗ trợ về hạ tầng, dịch vụ kỹ thuật, kiểm định chất lượng, cung ứng vật liệu và kết nối thị trường.
5. Nâng cao chất lượng nhân lực
Đào tạo kỹ sư cơ khí, kỹ thuật viên cần gắn với nhu cầu thực tế. Việc hợp tác giữa doanh nghiệp – viện nghiên cứu – trường đại học cần được thúc đẩy mạnh mẽ để giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực chất lượng cao.
6. Tạo cơ chế ưu đãi và công bằng hơn cho doanh nghiệp Việt
VAMI cho rằng: Cần ưu đãi đầu tư rõ ràng và bình đẳng cho doanh nghiệp cơ khí trong nước; Tăng cường đặt hàng sản phẩm cơ khí – CNHT từ các dự án đầu tư công; Hỗ trợ tiếp cận tín dụng, giảm chi phí vốn; Kết nối doanh nghiệp trong nước với khách hàng quốc tế và các tập đoàn FDI. Đây là giải pháp thiết thực để doanh nghiệp Việt đủ sức cạnh tranh.
Hướng tới mục tiêu làm chủ công nghệ và nâng cao vị thế quốc gia
Theo Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp Nguyễn Ngọc Thành, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phát triển mạnh các ngành công nghiệp hạ nguồn, bao gồm công nghiệp năng lượng, cơ khí chính xác và cơ khí chế tạo. Khi các ngành sản xuất cuối cùng phát triển mạnh, thị trường cho CNHT sẽ mở rộng, tạo điều kiện để doanh nghiệp cơ khí Việt Nam trở thành nhà cung cấp cấp 1, cấp 2 cho các tập đoàn toàn cầu.
CNHT cơ khí không chỉ là nền tảng của sản xuất, mà còn là nền tảng của năng lực cạnh tranh quốc gia. Muốn vươn ra thế giới, doanh nghiệp Việt phải làm chủ vật liệu, linh kiện và công nghệ lõi thay vì chỉ gia công đơn thuần.
Ngành cơ khí Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa quan trọng. Với sự vào cuộc mạnh mẽ của Nhà nước, sự đổi mới của doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ các hiệp hội, đây là thời điểm để CNHT cơ khí bứt phá, trở thành trụ cột của nền công nghiệp hiện đại và đóng góp xứng đáng vào tăng trưởng kinh tế đất nước.



